Trong năm 2018, các đơn vị nghiên cứu và giáo dục tại Việt Nam đã công bố tổng cộng 6707 công trình trên các tạp chí ISI (dữ liệu Web of Science - WoS).
Thống kê số công bố ISI của các cơ sở đào tạo và nghiên cứu của Việt Nam 7 tháng đầu năm 2019 (dữ liệu WoS 01/08/2019)
Số lượng công bố quốc tế của Việt Nam
Đến đầu tháng 8/2019, tuy thời gian mới đi được hơn một nửa, nhưng tổng số công bố của các đơn vị ở Việt Nam đã đạt 70% so với toàn bộ năm 2018. Trong số những đơn vị tăng trưởng nhanh của Việt Nam, đáng chú ý hơn cả là Đại học (ĐH) Nguyễn Tất Thành; vốn nằm ngoài Top 10 ở năm 2018, nhưng hiện đã vượt lên đứng thứ 5 xét về số lượng công bố tính đến 7 tháng đầu năm 2019. Điều này dự báo những thay đổi thú vị về thứ hạng của Top 10 về công bố quốc tế của Việt Nam trong vài năm sắp đến.
Top 10 các cơ sở đào tạo và nghiên cứu của Việt Nam về công bố ISI trong năm 2018 và 7 tháng đầu năm 2019 (dữ liệu WoS 01/08/2019)
Lưu ý: Dữ liệu WoS thống kê theo năm công bố. Do đó, việc thống kê theo năm học, từ giữa năm này đến giữa năm sau,chỉ mang tính tương đối. Số lượng chính xác theo năm học chỉ có thể do mỗi trường tự thống kê cho mình. Ngoài ra, lượng công bố thống kê từ WoS thường nhỏ hơn con số các trường thực sự đã công bố được vì những sai lệch về tên gọi, cách viết tắt, thứ tự tác giả, và trường chủ quản trong những bài báo với hàng trăm trường cùng tham gia,…
Top 10 các cơ sở đào tạo và nghiên cứu của Việt Nam về công bố ISI trong năm 2018 và 7 tháng đầu năm 2019 (dữ liệu WoS 01/08/2019)
TT
|
Đơn vị
|
Số công bố ISI năm 2018
|
Số công bố ISI7 tháng đầu năm 2019
|
1
|
ĐH Tôn Đức Thắng
|
1229
|
1083
|
2
|
Viện Hàn Lâm KH & CN Việt Nam
|
757
|
552
|
3
|
ĐH Quốc gia TpHCM
|
678
|
519
|
4
|
ĐH Duy Tân
|
487
|
469
|
5
|
ĐH Quốc gia Hà Nội
|
356
|
250
|
6
|
ĐH Bách Khoa Hà Nội
|
272
|
165
|
7
|
ĐH Huế
|
225
|
151
|
8
|
ĐH Cần Thơ
|
184
|
108
|
9
|
ĐH Đà Nẵng
|
155
|
123
|
10
|
ĐH Y Hà Nội
|
162
|
114
|
11
|
ĐH Nguyễn Tất Thành
|
81
|
258
|
Đặt trong "bức tranh" của khu vực Đông Nam Á
Mặc dù trên đây đều là những đơn vị nghiên cứu mạnh của Việt Nam,nhưng khi so sánh năng suất công bố 7 tháng đầu năm 2019 với các đại học tốp đầu của các quốc gia khác trong khu vực Đông Nam Á, các trường/viện của Việt Nam chỉ đứng ở tốp giữa, và đều xếp sau các trường hàng đầu của Singapore, Malaysia, và Thailand. Đáng chú ý, chỉ riêng số lượng công bố của 3 trường đầu tiên của khu vực ASEAN, đã lần lượt gần gấp khoảng5, 3, và 2 lần đơn vị có số công bố nhiều nhất của Việt Nam trong cùng thời gian. Điều này cho thấy Nhà nước và bản thân các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam cần quan tâm và đầu tư hơn nữa cho công bố quốc tế thì mới mong theo kịp các trường bạn trong khu vực.
Thành tích Công bố ISI 7 tháng đầu năm 2019 của các cơ sở đào tạo và nghiên cứu hàng đầu khối ASEAN (dữ liệu WoS 01/8/2019).
|
|
No.
|
ĐẠI HỌC
|
Quốc gia
|
Pubs.
|
|
No.
|
ĐẠI HỌC
|
Quốc Gia
|
Pubs.
|
1
|
National Univ. of Singapore
|
Singapore
|
4848
|
|
21
|
Singapore Univ. of Tech. Design
|
Singapore
|
334
|
2
|
Nanyang Tech. Univ.
|
Singapore
|
3609
|
|
22
|
Inst. Tech. of Bandung
|
Indonesia
|
308
|
3
|
Univ. Malaya
|
Malaysia
|
1948
|
|
23
|
Indonesian Inst. of Sciences
|
Indonesia
|
265
|
4
|
Mahidol Univ.
|
Thailand
|
1381
|
|
24
|
Nguyen Tat Thanh Univ
|
Vietnam
|
258
|
5
|
Univ. Putra Malaysia
|
Malaysia
|
1297
|
|
25
|
VN Nat. Univ. Hanoi
|
Vietnam
|
250
|
6
|
Chulalongkorn Univ.
|
Thailand
|
1253
|
|
26
|
Singapore Management Univ.
|
Singapore
|
181
|
7
|
Univ. Sains Malaysia
|
Malaysia
|
1252
|
|
27
|
Hanoi Univ. of Sci. & Tech.
|
Vietnam
|
165
|
8
|
Univ. Kebangsaan Malaysia
|
Malaysia
|
1223
|
|
28
|
Hue Univ.
|
Vietnam
|
151
|
9
|
Univ. Teknologi Malaysia
|
Malaysia
|
1129
|
|
29
|
De La Salle Univ.
|
Philippines
|
150
|
10
|
Ton Duc Thang Univ
|
Vietnam
|
1083
|
|
30
|
Univ. Brunei Darussalam
|
Brunei
|
135
|
11
|
Chiang Mai Univ.
|
Thailand
|
809
|
|
31
|
Univ. of Da Nang
|
Vietnam
|
123
|
12
|
Univ. of Indonesia
|
Indonesia
|
553
|
|
32
|
Univ. of Santo Tomas
|
Philippines
|
119
|
13
|
VN Acad. of Sci. and Tech.
|
Vietnam
|
552
|
|
33
|
Can Tho Univ.
|
Vietnam
|
108
|
14
|
Prince of Songkla Univ.
|
Thailand
|
550
|
|
|
|
|
|
15
|
Khon Kaen Univ.
|
Thailand
|
527
|
|
|
|
|
|
16
|
VN National Univ. of HCMC
|
Vietnam
|
519
|
|
|
|
|
|
17
|
University of The Philippines
|
Philippines
|
486
|
|
|
|
|
|
18
|
Duy Tan Univ
|
Vietnam
|
469
|
|
|
|
|
|
19
|
Gadjah Mada Univ.
|
Indonesia
|
448
|
|
|
|
|
|
20
|
Airlangga Univ.
|
Indonesia
|
350
|
|
|
|
|
|
Năng lực công bố và Bảng xếp hạng Top 400 Đại học châu Á của THE 2019: Cơ hội nào cho Việt Nam?
Năng lực nghiên cứu còn thấp của Việt Nam cũng lộ rõ khi đầu tháng 5/2019, tạp chí Times Higher Education (THE) đã công bố bảng xếp hạng năm 2019 cho hơn 400 trường đại học châu Á [1] mà không có đại diện nào của Việt Nam. Trong số 10 nước thuộc khối ASEAN, chỉ 5 nước có đại diện góp mặt, bao gồm:
- Singapore: 2 trường, - Indonesia: 6 trường, và
- Malaysia: 11 trường, - Philippines: 2 trường.
- Thailand: 14 trường,
Không có tên trong bảng xếp hạng của THE, đồng nghĩa trong mắt cộng đồng quốc tế, Việt Nam chỉ đứng chung hạng với Laos, Cambodia, Myanmar, Brunei về nghiên cứu.
Bảng xếp hạng THE dựa theo bộ 5 tiêu chuẩn 13 tiêu chí [2] với các trọng số khác nhau để xếp hạng các trường. Đáng nói, hai tiêu chuẩn số lượng công bố và số trích dẫn chiếm tỉ trọng đến 60%. Vì vậy, có thể nói rằng nếu một trường tổ chức hoạt động nghiên cứu tốt, ít nhất có thể hiện qua số lượng và số trích dẫn công bố quốc tế; thì trường đó đã đi được hơn một nửa chặng đường để ghi tên mình trên bảng xếp hạng. Dù vậy, trong khi số lượng công bố quốc tế có thể tăng nhanh nếu có đầu tư mang tính tập trung và liên tục, thì số lượng trích dẫn lại tùy thuộc vào thời gian, ngành nghiên cứu trọng điểm (có thể có hoặc không có lượng trích dẫn cao) của trường/viện, và cả chất lượng nghiên cứu. Do đó, đây là chỉ số tương đối khó đạt được ngay trong thời gian ngắn.
Mối tương quan giữa số lượng công bố 7 tháng đầu năm 2019 và vị trí của các trường trong Bảng xếp hạng Đại học châu Á của Times Higher Education năm 2019
Hình trên biểu diễn mối tương quan giữa số lượng công bố trong 7 tháng đầu năm 2019 và vị trí các trường trong Bảng xếp hạng THE 2019 thuộc các quốc gia ASEAN. Có thể thấy rằng, những trường với năng suất công bố ISI đạt:
- Từ 3000-5000 bài/7 tháng đầu 2019 (hay trung bình 400-700 bài/tháng) đều nằm trong Top 10 của châu Á;
- Từ 2000-3000 bài/7 tháng đầu 2019 (hay 300-400 bài/tháng) nằm trong Top 30;
- Từ 1000 đến 2000 bài/7 tháng đầu 2019 (hay 150-300 bài/tháng) thì thuộc top 100-200; và
- Thấp hơn 1000 bài/7 tháng đầu 2019 (vào khoảng 150 bài/tháng) thì thuộc top 200-400.
Nói như vậy có phải ngầm ý rằng các trường có số lượng bài càng lớn thì sẽ xếp càng cao trên bảng xếp hạng của THE hay các bảng xếp hạng đại học uy tín khác không? Không hẳn là vậy! Bởi vì vẫn có những trường hợp như University of Indonesia với 553 bài/7 tháng đầu 2019 nhưng vẫn nằm trong top 100-200. Thấp hơn nữa có University of The Philippines chỉ với 486 bài, nhưng vẫn thuộc top 100. Thậm chí, chỉ với 150 bài, De La Salle University cũng được xếp hạng và thuộc top 300.
Điều đó nghĩa là chất lượng nghiên cứu của một đơn vị vẫn đóng một vai trò không nhỏ trong xếp hạng, và đôi khi không nhất thiết song hành cùng số lượng công bố. Chất lượng của nghiên cứu thường được phản ánh qua lượng trích dẫn và uy danh của tạp chí và nhà nghiên cứu (thông qua chỉ số Q-rating và H-index). Do đó, nếu trường nào tích lũy được những công bố, dù không nhiều, trên các tạp chí hàng đầu thế giới như Nature hoặc Science, hoặc trên những tạp chí top trong chuyên ngành, thì cơ hội xếp hạng, không chỉ trên bảng của THE mà cả trên các bảng khác, vẫn rộng mở.
Thật vậy, như là một ví dụ về sự đề cao chất lượng nghiên cứu qua uy danh của tạp chí, bảng xếp hạng uy tín Nature-indexgiai đoạn từ tháng 2/2018 đến 2/2019 cho thấy một số đơn vị của Việt Nam dù có ít công bố được tính (chỉ số AC nhỏ) vẫn có thể có được vị trí cao (chỉ số FC lớn) và ngược lại. Chẳng hạn Viện Hàn lâm Khoa học & Công nghệ Việt Nam (VAST) và Đại học Bách khoa Hà Nội (HUST) chỉ xếp thứ 2 và 6 trong xếp hạng về số lượng công bố, lại dẫn đầu ở vị trí 1 và 2 khi xếp hạng về chất lượng công bố cho các ngành Khoa học Tự nhiên và Khoa học Sự sống. Ngược lại,
ĐH Tôn Đức Thắng và ĐH Duy Tân lần lượt xếp thứ 1 và 4 về tổng số công bố quốc tế, nhưng nếu theo cách tính của Nature-index thì hai trường này xếp lần lượt là 5 và 6.
Nature Index của Top 10 cơ sở đào tạo và nghiên cứu của Việt Nam từ 02/2018 đến 02/2019
Trở lại với vấn đề tổng số lượng công bố và xếp hạng theo THE, mặc dù Việt Nam chưa có trường nào được xướng tên trên Bảng xếp hạng THE 2019, nhưng hiện tại đã có 4/10 đơn vị đạt từ 400 bài ISI trở lên cho 7 tháng đầu năm 2019 (hay hơn 60 bài/tháng). Đặc biệt, ĐH Tôn Đức Thắng đã đạt trên 1000 bài ISI trong 7 tháng đó (hay khoảng 150 bài/tháng). Vì vậy, hoàn toàn có cơ sở để hy vọng sẽ sớm có đơn vị nghiên cứu của Việt Nam được ghi tên lên Bảng xếp hạng THE. Dĩ nhiên, việc đạt xếp hạng đó không thể trở thành hiện thực ngay lúc này, mà có lẽ cần tối thiểu từ 3 đến 5 năm nữa; bởi THE dựa trên dữ liệu trong5 năm gần nhất của thời điểm xếp hạng. Vậy nên các đơn vị giáo dục và nghiên cứu của Việt Nam cần tiếp tục duy trì hoặc nâng cao năng suất và chất lượng công bố quốc tế, trước mắt là các bài báo quốc tế, của đơn vị mình.
Dù cho gần đây có nhiều quan điểm cho rằng các trường của Việt Nam nên thôi “cơn say” chạy theo số lượng công bố quốc tế [3], nhưng mối quan hệ biện chứng giữa “lượng-chất” có lẽ vẫn đúng. Chưa đủ “lượng” về số công bố quốc tế chắc chắn sẽ khó có khả năng tạo được chuyển biến về “chất” trên các bảng xếp hạng đại học của khu vực hay thế giới.
Đầu tư cho nghiên cứu với bối cảnh Việt Nam trong thời gian đến
Duy trì và nâng cao số lượng cũng như chất lượng công bố quốc tế để lọt vào các bảng xếp hạng uy tín trong thời gian sắp đến sẽ không phải là nhiệm vụ dễ dàng nếu các đơn vị tại Việt Nam thiếu một nguồn lực tài chính dồi dào nếu muốn đi đường dài. Kể cả trường hợp đã có tên trên bảng xếp hạng, việc cần thêm rất nhiều tiền cho nghiên cứu để tiến lên những vị trí cao hơn cũng là rất thiết yếu, xét ở bình diện đóng góp cho quốc gia và quốc tế; hơn là việc tự hài lòng trong khi vẫn chỉ luôn đứng ở đáy của các bảng xếp hạng đó. Nhưng đầu tư như thế nào cho hợp lý trong bối cảnh Việt Nam vẫn là nước có trình độ nghiên cứu chưa theo kịp các nước tiên tiến, và người dân vẫn chưa thật sự được hưởng lợi gì từ nhiều nghiên cứu của các đơn vị giáo dục và nghiên cứu của nước nhàdo cơ cấu phát triển ngành nghề công nghiệp và kỹ thuật ở nước ta chưa hẳn đã ở mức cao?
Trước tình hình đó, có lẽ việc tăng cường hợp tác giữa các trường trong nước và với các trường nước ngoài để cùng tăng sản lượng và chất lượng công bố, là điều quan trọng cần tiếp tục duy trì trong nỗ lực thay đổi cả “lượng” và “chất”, bên cạnh việc tự xây dựng năng lực nghiên cứu của chính mỗi đơn vị. Chẳng hạn, cho đến nay các bài báo trên những tạp chí hàng đầu như Science hay Nature vẫn là niềm mơ ước của các trường Việt Nam; nhưng với suất đầu tư thông thường lên đến hàng triệu hay hàng chục triệu đôla Mỹ cho mỗi bài báo như vậy trên thế giới, liệu có đơn vị giáo dục hay nghiên cứu nào của Việt Nam có đủ lực để làm được và duy trì? Chính vì vậy, nếu bất kỳ một đơn vị nào có thể hợp tác được với nước ngoài để tạo ra được những kết quả ở tầm đó thì cũng sẽ là một việc đáng trân trọng nhằmtạo ra đột phá với một tỷ suất đầu tư thấp hơn.
Vấn đề tên tiếng Anh của các trường đối với Xếp hạng Quốc tế
Để có được kết quả đánh giá xếp hạng chính xác nhất, việc chuẩn hóa tên gọi bằng tiếng nước ngoài, nhất là tiếng Anh, của các cơ sở đào tạo và nghiên cứu là vô cùng quan trọng. Hãy thử tưởng tượng, một đơn vị sau khi đầu tư rất nhiều để có được công bố, nhưng công bố đó lại không thể tìm kiếm ra được một cách thông thường trong các hệ thống thư mục khoa học uy tín chỉ vì tên đơn vị viết không đúng: Hệ quả là nhiều công bố của đơn vị sẽ không được tính trong kết quả xếp hạng. Đó sẽ là một mất mát vô lý.
Chính vì vậy, một khi đã quan tâm đến xếp hạng đại học ở tầm quốc tế, các đơn vị nghiên cứu cần nghiêm túc lưu tâm đến vấn đề về tên tiếng Anh trên bài báo. Ngay từ năm 2014, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam từng chỉ đạo các trường đại học, cao đẳng trong cả nước rà soát, chấn chỉnh tên viết bằng tiếng nước ngoài, nhất là tiếng Anh, nhằm tạo thuận lợi cho việc hội nhập quốc tế. Trước đó cũng đã có nhiều chuyên gia lên tiếng về vấn đề này. Tuy nhiên, cho đến nay, tình hình dù có thay đổi nhưng vẫn còn khá lộn xộn. Thật vậy, qua nghiên cứu dữ liệu công bố của các trường ở Việt Nam trong hai năm gần nhất là 2017 và 2018, đáng buồn là tên gọibằng tiếng Anh của nhiều trường đại học tại Việt Nam vẫn còn được viết bằng nhiều cách khác nhau. Dưới đây là một vài ví dụ:
TT
|
TÊN TRƯỜNG/VIỆN
|
CÁC KIỂU VIẾT TRÊN ĐỊA CHỈ TÁC GIẢ BÀI BÁO
|
1
|
ĐH Bách khoa Hà Nội
|
· Ha Noi University of Science and Technology,
· University of Science and Technology, Hanoi,
· HUST,
· Hanoi Technology University,
· Hanoi Univ. of Science and Tech,
· Hanoi University of Science and Technology,
· Hanoi University of Sci. and Tech,
· Hanoi University of Science & Technology,
· Hanoi University of Science Technology,
· Hanoi University of Technology.
|
2
|
ĐH Thương mại
|
· Thuong Mai University,
· Thuongmai University,
· University of Commerce Hanoi,
· University of Commerce,
· Vietnam Commercial University,
· Vietnam University of Commerce.
|
3
|
ĐH KHTN - ĐHQG Hà Nội
|
· College of Science, Vietnam National University Hanoi,
· College of Science Viêt Nam National University, Hà Nôi,
· VNU University of Science, Vietnam National University,
· Department of Chemical and Environmental Engineering, Viet Nam National University,
· Faculty of Biological Sciences, Vietnam National University in Hanoi, 334 Nguyen Trai,
· VNU University of Science,
· Department of Mathematics, Mechanics and Informatics, Hanoi National University,
· Department of Mathematics, Mechanics and Informatics, Vietnam National University,
· Vietnam National University of Science,
· College of Science, Ha Noi National University,
· Ha Noi University of Science,
· Hanoi University of Science,
· Ha Noi University of Sciences, Vietnam National University,
· Hanoi University of Science, VNU,
· Hanoi-VNU University of Science, Vietnam National University,
· College of Natural Sciences, Vietnam National University,
· University of Science-VNU, Hanoi,
· V N U University of Science, Vietnam National University,
· Vietnam National University - University of Science,
· VNU Hanoi University of Science,
· VNU-Hanoi University of Science,
· VNU-University of Sciences.
|
4
|
ĐH Sư phạm Đà Nẵng
|
· Da Nang University of Education,
· College of Education, Danang University,
· Da Nang University of Education, the University of Da Nang,
· Danang University of Education,
· Danang University of Education, Danang University,
· Department of Mathematics, Da Nang University,
· Department of Mathematics, Danang University,
· The University Danang - University of Education,
· University of Danang - University of Education,
· University of Education - Danang University,
· College of Education, The University of Da Nang.
|
5
|
ĐH Kinh tế Quốc dân
|
· National Economic University,
· National Economics University (NEU),
· Université Nationale d’Économie de Hanoi,
· Vietnam & National Economics University,
|
6
|
ĐH Thủy lợi
|
· Thuy Loi Univ.,
· Thuy Loi University,
· Thuyloi Univ.,
· Water Resource University, 175 Tay Son
· Water Resources University, 175 Tay Son.
|
Đứng ở góc độ đo lường khoa học, hay rộng hơn là xếp hạng đại học, nếu các trường không tự chấn chỉnh vấn đề trên,việc tìm kiếm bài báo của các trường trên Web of Science hay Scopus sẽ cho kết quả thiếu chính xác. Điều này vô cùng nguy hại, bởi một khi các trường đã tham gia xếp hạng, các tổ chức như THE hay QS có thể sẽ đánh giá không chính xác năng lực nghiên cứu của các trường vì có quá nhiều tên gọi.Và lẽ hiển nhiên là kết quả xếp hạng sẽ bị ảnh hưởng ít nhiều.
(Nguồn:https://www.tienphong.vn/giao-duc/ban-ve-xep-hang-quoc-te-cua-cac-dai-hoc-viet-nam-qua-cong-bo-quoc-te-1453460.tpo?fbclid=IwAR3gals02BJo6q0X1c63_p_6tfvpAfFSDmmxdpP-2zLbDDKNwDHoMXT2sBo)