Ngày mai 10.9, khi hết giờ làm việc theo thông lệ của bưu điện, các trường sẽ chấm dứt việc nhận hồ sơ (HS) xét tuyển nguyện vọng (NV) 2. Trong khi có nhiều ngành của nhiều trường đã vượt chỉ tiêu, lại có những ngành chỉ nhận được số lượng HS rất thấp.
Hồ sơ thừa vẫn không đủ chỉ tiêu
Phần lớn các trường cho biết, thí sinh (TS) nộp HS không đồng đều
vào các ngành, do đó chuyện thừa thì vẫn thừa mà thiếu vẫn cứ thiếu. Tiến sĩ
Phạm Tấn Hạ - Phó phòng đào tạo trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM
cho biết: “Trường lấy 500 chỉ tiêu NV2 thì tính đến thời điểm chiều 8.9 cũng
nhận được khoảng gần 500 HS. Tuy nhiên TS nộp vào khối C nhiều hơn là khối D.
Ngành nhận được nhiều HS nhất là Giáo dục học, do đó điểm chuẩn ngành này có
thể sẽ cao hơn điểm sàn xét tuyển”.
Thạc sĩ Tạ Quang Lâm, Phó trưởng phòng đào tạo trường ĐH Sư phạm
TP.HCM cũng cho hay, ngành Sử - Giáo dục quốc phòng của trường có lượng HS vượt
chỉ tiêu, điểm chuẩn chắc chắn sẽ cao. Trong khi đó những ngành như song ngữ
Nga - Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung, các ngành cử nhân... thì lại thiếu rất
nhiều. Trường lấy 800 chỉ tiêu thì đến nay cũng mới nhận được lượng HS tương
đương. “Năm ngoái trường xét NV2, NV3 rất nhiều nhưng đến khi nhập học vẫn
thiếu 16% chỉ tiêu. Sở dĩ như vậy là có nhiều em đỗ nhưng lại không nhập học” -
ông Lâm nói thêm.
|
Trường
lấy 500 chỉ tiêu NV2 thì tính đến thời điểm chiều 8.9 cũng nhận được khoảng
gần 500 HS. Tuy nhiên TS nộp vào khối C nhiều hơn là khối D |
|
Tiến sĩ Phạm Tấn Hạ - Phó phòng đào tạo trường ĐH
KHXH và NV TP.HCM |
Trường ĐH Sư phạm kỹ thuật TP.HCM đến ngày 8.9 cũng nhận được tới
2.000 HS trong khi chỉ tiêu chỉ lấy 600. Tuy nhiên, ông Nguyễn Tiến Dũng,
Trưởng phòng đào tạo vẫn lo ngại những ngành như Cơ kỹ thuật, Thiết kế máy, Kỹ
thuật nữ công sẽ không đủ chỉ tiêu do TS tập trung hết vào các ngành Kỹ thuật
điện - điện tử, Cơ khí chế tạo máy, Điện công nghiệp... Với những ngành nhiều
HS này, điểm chuẩn sẽ khoảng 15-16 điểm trở lên. Ông Nguyễn Tưởng Duy - Trưởng
phòng đào tạo trường ĐH Tôn Đức Thắng cũng cho hay, trường nhận được vài ngàn
HS nhưng nhóm ngành kỹ thuật lại có nguy cơ thiếu chỉ tiêu như ngành Quan hệ
lao động, Kỹ thuật điện - điện tử và viễn thông, Toán - Tin, Xây dựng cầu
đường...
Thí sinh đổ xô vào ngành kinh tế
Dù chưa có thống kê đầy đủ về tình hình nộp HS đăng ký xét tuyển
NV2 của TS năm nay, nhưng những số liệu ban đầu cho thấy sự lựa chọn ngành nghề
của TS có nhiều biến động. Tuy nhiên những lựa chọn ấy có thực sự phù hợp với
yêu cầu xã hội hay không?
Số liệu từ các trường ĐH-CĐ có tuyển sinh NV2 cho thấy, ở tất cả
các trường, khối ngành kinh tế đã được TS “lao” vào đông nhất, đặc biệt là
ngành Tài chính - Ngân hàng, Kế toán. Hầu như các ngành này ở các trường có
tuyển NV2 đã thừa chỉ tiêu với dự báo mức điểm tăng cao so với điểm sàn nhận
HS. Vì sao TS lại thích các ngành nghề này? Theo bà Nguyễn Thị Lan Hương - Viện
trưởng Viện Khoa học lao động và xã hội - nơi đã nghiên cứu và đưa ra những dự
báo về nhu cầu của thị trường lao động thì những ngành như tài chính, ngân
hàng, địa ốc, khách sạn, du lịch, nhà hàng... là những ngành dịch vụ có giá trị
gia tăng cao nên cơ hội việc làm lớn. Tuy nhiên không phải ngành nào thuộc lĩnh
vực kinh tế cũng sẽ có cơ hội việc làm cao, bởi trên thực tế một số chuyên
ngành đã bão hòa. Cũng theo bà Hương thì ngành kế toán mặc dù năm nay được TS
lựa chọn rất nhiều nhưng theo dự báo thì ngành này đã đến giai đoạn bão hòa. Bà
Hương cho rằng, khi TS lựa chọn ngành nghề, họ chỉ nhìn thấy những ngành đang
có mức lương cao và có nhiều việc làm nhưng như thế là chưa đủ, bởi phải nhìn
được ngành nghề đó sau 5 năm nữa có còn tiếp tục phát triển hay không. Có thể
những ngành này giờ đang đến đỉnh cao thì sau 5 năm nữa, nhu cầu xã hội sẽ cân
bằng. Chỉ những ngành tiền lương ở mức rất cao thì sau 5 năm nữa vẫn có thể còn
thiếu nguồn nhân lực. Với những ngành tiền lương vừa phải tức là nhu cầu lao
động đã bão hòa và tỷ lệ thất nghiệp đang cao thì sẽ khó có việc làm.
Lý giải về việc các trường đã tuyển sinh phù hợp với yêu cầu xã
hội hay chưa, ông Nguyễn Văn Ngữ - Vụ trưởng Vụ Kế hoạch tài chính - Bộ GD-ĐT
cho rằng: thực tế hiện nay, khi đề xuất chỉ tiêu đào tạo hằng năm, các cơ sở
đào tạo có khả năng về giảng viên, cơ sở vật chất và nguồn tài chính đến đâu
thì đào tạo đến đó, chưa thật sự chú ý đến nhu cầu về số lượng và chất lượng
lao động của xã hội, chưa quan tâm đúng mức đến đánh giá chất lượng và hiệu
quả, đến việc sinh viên sau khi tốt nghiệp có việc làm hay không, chất lượng
đào tạo có đáp ứng yêu cầu của cơ quan, doanh nghiệp sử dụng lao động hay
không...
Nghịch lý ngành
công nghệ, kỹ thuật
|