Sinh viên Trường CĐ Kỹ thuật Cao Thắng đăng ký tìm việc tại ngày hội việc làm - Ảnh: Đào Ngọc Thạch
|
Thừa nhân lực, nhiều chỉ
tiêu đào tạo
PGS-TS Nguyễn Kim Hồng,
Phó hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm TP.HCM cho biết, trong những năm tới nhiều
địa phương không có nhu cầu tuyển giáo viên, song hằng năm nhiều tỉnh có hàng
trăm, thậm chí hàng ngàn giáo viên ra trường. Chẳng hạn tại Nghệ An, mỗi năm ngành
giáo dục tỉnh chỉ tuyển vài ba chỉ tiêu và dự báo từ nay đến năm 2015 bổ sung
rất ít nhân sự. Thế nhưng, chỉ riêng 2 trường: CĐ Sư phạm Nghệ An và ĐH Vinh
của tỉnh, hằng năm cho ra trường hơn 1.000 giáo viên. Ông Lê Văn Ngọ, Giám đốc
Sở GD-ĐT Nghệ An, thông tin: “Có chăng, ngành cũng chỉ tuyển một số ít giáo
viên tin học, mỹ thuật vì nhân sự các môn này còn thiếu”.
Tương tự, theo dự báo
của nhiều chuyên gia, các ngành thuộc khối kinh tế đang thừa nhân lực. Tuy
nhiên, số lượng thí sinh dự thi vào các ngành này đều tăng. Chính vì thế hầu
hết các trường ĐH ngoài công lập đều mở những ngành này và xem là thế mạnh để
tuyển được thí sinh. Các trường ĐH công lập trước đây chỉ đào tạo những nghề
đặc thù, nay cũng phải mở thêm những ngành liên quan đến kế toán - tài chính để
thu hút thí sinh.
Tiến sĩ Trần Huy Hoàng,
Trưởng khoa Ngân hàng Trường ĐH Kinh tế TP.HCM, nhận định: “Xét ở toàn bộ xã
hội, nhu cầu nhân sự của các ngân hàng là có giới hạn nhưng số lượng người học
lại quá lớn gây nên sự mất cân đối nghiêm trọng. Nếu như có được dự báo về
ngành học này cần bao nhiêu lao động trong thời gian tới và các trường đào tạo
phù hợp với nhu cầu đó thì sinh viên sẽ không lo thất nghiệp”. Theo khảo sát
cung - cầu của Viện Nhân lực ngành ngân hàng tài chính và Hay Group, trong năm
2013 sẽ có khoảng 32.000 sinh viên chuyên ngành tài chính - ngân hàng ra trường
nhưng các tổ chức tài chính, ngân hàng chỉ cần tuyển dụng khoảng 20.000 người.
Thông tin dự báo chưa
chuyên nghiệp
Từ trước đến nay các
trường xác định chỉ tiêu đều dựa vào những tiêu chí: số học sinh, sinh viên
chính quy/giáo viên, giảng viên quy đổi; diện tích sàn xây dựng trực tiếp phục
vụ đào tạo. Như vậy, việc cấp chỉ tiêu đào tạo chưa hề dựa trên yếu tố dự báo
hoặc nhu cầu nhân lực xã hội.
PGS-TS Nguyễn Kim Hồng
thừa nhận: “Thực chất, các trường sư phạm hiện cũng chỉ đào tạo căn cứ vào chỉ
tiêu của Bộ GD-ĐT. Các trường đào tạo đa ngành cũng vậy, chỉ đào tạo theo chỉ
tiêu cho phép, còn việc nhu cầu nhân lực thế nào ít ai quan tâm”. Điều này dẫn
đến tình trạng sinh viên tốt nghiệp không có việc làm, phải làm trái nghề, hoặc
chấp nhận học lại ngành khác.
Ông Hồng cho biết ở
nhiều nước phát triển, trung tâm dự báo nguồn nhân lực hoạt động hiệu quả, khoa
học, góp phần định hướng, dự báo nguồn nhân lực từ 5, 10 hoặc thậm chí 20 năm.
Tại Việt Nam hiện có 2 đơn vị làm công tác này: Trung tâm dự báo nguồn nhân lực
quốc gia (thuộc Bộ LĐ-TB-XH) và Trung tâm dự báo nguồn nhân lực và thông tin
thị trường lao động TP.HCM (Sở LĐ-TB-XH TP.HCM). Nhưng thông tin của 2 trung
tâm này chưa thực sự có tính tổng quát, rộng khắp ở nhiều lĩnh vực ngành nghề
trong xã hội.
Trung tâm dự báo quốc
gia thường chỉ mua lại thông tin từ tổ chức nước ngoài để đưa ra dự báo. Trong
khi đó, ông Trần Anh Tuấn, Giám đốc Trung tâm dự báo nguồn nhân lực và thông
tin thị trường lao động TP.HCM, cho biết một trong những nguyên nhân khiến việc
dự báo chưa đạt hiệu quả như mong muốn vì thiếu nhân lực. Hiện tại trung tâm có
46 người nhưng chưa thấm vào đâu so với việc điều tra nhu cầu nhân lực của khoảng
50.000 doanh nghiệp tại TP.HCM để đưa ra các dự báo. Vì thế mỗi năm, trung tâm
cũng chỉ điều tra được 10.000 lượt doanh nghiệp.
Ý kiến
Còn rất phiến diện
Công tác dự báo nguồn nhân lực ở nước ta còn rất phiến diện, chỉ
dựa trên một số mẫu dữ liệu nên không thể phản ánh chính xác tổng thể thị
trường lao động trong hiện tại cũng như định hướng tương lai. Mặt khác, việc
hướng nghiệp hiện chỉ làm phần ngọn. Lẽ ra, cần định hướng, tư vấn nghề nghiệp
cho học sinh ngay từ cấp 2 nhằm giúp các em có sự tìm hiểu, hình dung cụ thể về
nghề nghiệp. Suốt bao năm nay, chúng ta chủ yếu làm công tác định hướng khi học
sinh đang đứng trước ngưỡng cửa ĐH. Vì vậy, rất nhiều em thiếu sự chuẩn bị,
chưa hiểu gì về công việc, dẫn đến tâm lý phổ biến là chọn những ngành dễ đậu để
đi thi.
Nguyễn Văn Sang - Phó giám đốc Trung tâm hướng
nghiệp, dạy nghề và giới thiệu việc làm thanh niên TP.HCM
Tìm hiểu nhu cầu thị trường trước khi đào tạo
Sinh viên tiêu tốn 4 năm tuổi trẻ cộng với khoản tiền lớn bỏ ra
nhưng đến khi ra trường lại không đạt chuẩn như doanh nghiệp mong muốn. Doanh
nghiệp muốn sử dụng thì phải đào tạo lại. Như vậy, cùng một việc đào tạo mà
phải làm ít nhất 2 lần, lãng phí rất nhiều thời gian, công sức cho các bên liên
quan. Để công tác dự báo nguồn nhân lực hiệu quả, đòi hỏi cả một chuỗi gắn kết
với nhau: Trước khi đào tạo phải tìm hiểu nhu cầu thị trường, của doanh nghiệp
và xã hội; chương trình đào tạo phù hợp; xem xét sau khi sinh viên ra trường có
đáp ứng yêu cầu thực tiễn hay không; xóa bỏ định kiến phân biệt về những loại
nghề nghiệp...
Đặng Trần Cẩm Vân - Giám
đốc Công ty TNHH sản xuất, thương mại và dịch vụ V.E.V
Hướng nghiệp phù hợp với chính sách phát triển
Tâm lý đám đông chạy theo những ngành nghề, công việc mang tính
lợi nhuận cao khiến công tác dự báo dễ bị sai lệch. Khi thấy nhiều trường mở ồ
ạt các ngành như vậy, những người làm trong những cơ quan dự báo của nhà nước
phải cảnh báo và chủ động định hướng nghề nghiệp cho phù hợp với chính sách
phát triển chung. Nếu người dân chưa quan tâm một số ngành nghề, lĩnh vực nào
đó thì nhà nước phải chủ động đầu tư để thay đổi, thu hút sự chú ý của xã hội.
Làm sao để việc dự báo góp phần quan trọng vào sự phát triển cân đối, hài hòa
của đất nước.
Thạc sĩ Trần
Minh Trọng - Giám
đốc Trung tâm phát triển nguồn nhân lực - Viện Nghiên cứu khoa học lãnh đạo và
quản trị doanh nghiệp
Như
Lịch (ghi)
|
Minh Luân - Mỹ Quyên