English

Giấc mơ Duy Tân

Trồng cây đời, Gieo tri thức

Tuổi thơ tôi không bắt đầu bằng những ngày êm đềm. Bóng mờ của cơ cực và nghèo khó ập xuống khi tôi mới lên sáu. Nỗi đau lớn nhất là sự ra đi đột ngột của mẹ và hai em, đẩy tôi vào cảnh mồ côi, phải bắt đầu cuộc đời tự lập bằng những năm tháng đi ở đợ kéo dài đến khi mười tuổi. Chính những năm tháng thiếu thốn đó đã dạy tôi cách tự lo cho bản thân và hun đúc một nguyên tắc sống còn, dù ở trong bất kỳ tình huống nào cũng không bao giờ được phép dừng lại hay bỏ cuộc. Cuộc sống khắc nghiệt chắt lọc và để lại cho tôi ba trụ cột tinh thần, ba đức tính cốt lõi là khả năng chịu đựng gian khổ, ý thức sâu sắc về trách nhiệm, và một khát vọng được cống hiến để cuộc đời không trôi qua uổng phí. Điều này đã trở thành kim chỉ nam cho mọi quyết định của tôi sau này.

 

Trồng cây đời, Gieo tri thức


Những năm tháng được sống, hoạt động và rèn luyện trong cách mạng đã mang đến cho tôi thêm một người thầy vĩ đại là tính kỷ luật. Đức tính đó đã rèn giũa tôi trong suốt kháng chiến chống Mỹ cho đến tận ngày hôm nay. Từ nhiệm vụ liên lạc, tổ chức phong trào, đến khi đối mặt sinh tử giữa vòng vây quân thù, hay những ngày gồng mình phục hồi lực lượng ở các địa bàn khốc liệt nhất. Tôi luôn sẵn sàng ở tuyến đầu và chưa từng một lần từ chối bất kỳ nhiệm vụ nào mà Đảng tin tưởng giao phó, dù gian khổ hay hiểm nguy cận kề. Những năm tháng ấy đã tôi luyện tôi thành một con người kiên cường, sẵn sàng chịu đựng, sẵn sàng hy sinh và làm việc đến tận cùng sức lực.


Năm 1960, sau khi đỗ Tú tài toàn phần, tôi được giao nhiệm vụ về miền Trung để gây dựng phong trào từ con số không. Về đến Huế, tôi ghi danh vào Đại học Huế nhưng thực ra phải lên Sài Gòn học vì trường ở Huế không có ngành toán nhằm tiện tập hợp lực lượng sinh viên. Học sinh, sinh viên thời ấy phần lớn xuất thân trung lưu, có quan hệ với chính quyền Sài Gòn và đặc biệt gắn bó với Phật giáo. Từ họ, tôi đã tổ chức và xây dựng nên nòng cốt phong trào, dệt thành một mạng lưới thanh niên - học sinh - sinh viên giải phóng kéo dài xuyên suốt từ Quảng Trị đến Phú Yên.

 

Đại học Duy Tân với hành trình 30 năm dựng xây và phát triển
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn (thứ 6 từ trái sang) trao quyết định

của Thủ tướng Chính phủ chuyển Trường Đại học Duy Tân thành Đại học Duy Tân


Trong ký ức của thế hệ trí thức trẻ chúng tôi, điều sâu sắc và thiêng liêng nhất vẫn là những gì đã diễn ra trên bãi biển Thuận An vào tháng 3 năm 1963. Giữa muôn trùng vây bủa của kẻ thù, trên bãi biển vắng lặng, anh em chúng tôi đã bí mật thành lập Hội Liên hiệp Thanh niên - Sinh viên - Học sinh Giải phóng Miền Trung. Hai mươi bảy con người trẻ tuổi, đại diện cho khát vọng của thanh niên từ Quảng Trị đến Phú Yên, đã được bầu vào Ban Chấp hành. Trưa hôm đó, tất cả anh em chúng tôi đã ôm chầm lấy nhau và thề rằng sẽ chiến đấu đến tận cùng của sức trẻ. Đó không phải một lời thề hô hào, đó là một lời hứa bằng cả sinh mệnh. 


Chiến tranh thật tàn khốc. Quả thật, khi hòa bình lập lại, trong số 27 con người ngày ấy, chỉ còn 5 người được sống sót trở về. Hai mươi hai người anh em còn lại đã nằm lại nơi chiến trường, trở thành liệt sĩ. Đến tận bây giờ, tôi vẫn nhớ từng gương mặt, từng giọng nói của họ. Mỗi lần nghĩ đến, lòng tôi lại đan xen một niềm tự hào vô bờ lẫn một nỗi xót xa không thể gọi tên. Niềm vui ngày đất nước độc lập lại xen lẫn nỗi đau cho những người anh em đã vĩnh viễn không thể nhìn thấy ngày đất nước chiến thắng. Câu thơ tôi từng viết trong bài Quê hương ơi vẫn vang vọng trong tâm trí đến tận hôm nay: “Lớp lớp lên đường theo tiếng gọi, giữ non sông bằng cả trái tim mình.” Đó là lời khắc cốt ghi tâm về một thế hệ trẻ đã chẳng hề e ngại gian khổ, sẵn sàng từ bỏ bút nghiên mà xếp bút nghiêng lên đường ra chiến khu, với trái tim rực cháy một tấm lòng yêu nước nồng nàn.

 

Chiến tranh kết thúc, tôi trở về lại quê nhà Quảng Nam và một lần nữa đứng trước thử thách lớn. Từ Quốc lộ 1A, nhìn về hướng Đại Lộc, cách quê mình hơn mười lăm cây số, chỉ thấy một mảnh đất bằng phẳng và hoang tàn. Nước mắt tôi đã rơi. Tôi khóc không chỉ vì mất mái nhà, vạt ruộng, hàng tre mà còn vì thấy rõ nỗi mất mát khủng khiếp của quê hương. Dân tộc ta đã bị kìm hãm quá lâu bởi đói nghèo và lạc hậu do chiến tranh. Nhiều thế hệ nhân dân ta chưa từng được được đi học, được nhìn ra xa thế giới. Từ khoảnh khắc định mệnh đó, ước muốn làm giáo dục âm ỉ từ năm mười tám tuổi như trở thành mệnh lệnh thôi thúc mãnh liệt tôi hơn bao giờ hết. Chỉ có con đường giáo dục mới có thể gầy dựng lại một vùng đất gần như trống rỗng hoàn toàn trên mọi phương diện và tạo ra thế hệ con em tri thức dựng xây lại quê hương, tiếp bước các thế hệ đã hy sinh. Tôi luôn tâm niệm phong trào của cụ Phan Chu Trinh rằng phải “khai dân trí” thì mới “khai” được tất cả phần còn lại. 

 

Tôi không muốn chọn con đường yên ổn mà sẵn sàng đối diện với căn nguyên của mọi vấn đề của xã hội lúc bấy giờ. Thiếu tri thức, thiếu văn hóa và thiếu kỷ luật tư duy trong xã hội. Tôi tự nhủ rằng nếu không xây dựng được một nơi nghiêm túc để dạy học, để rèn luyện và để trưởng thành, thì những hy sinh của các thế hệ đồng đội đã nằm lại “mãi mãi tuổi hai mươi” sẽ trở nên vô nghĩa. Vì một dân tộc muốn đi xa đến đâu chỉ có thể duy nhất nhìn vào nền giáo dục của đất nước đó đang ở đâu!

 

Khi bắt tay xây dựng Đại học Duy Tân, mục tiêu của chúng tôi là đào tạo nên những thế hệ kế cận có đủ kiến thức để xây dựng chính mình và quê hương. Xa hơn nữa, tôi muốn họ trở thành những con người có giáo dục, có văn hóa, biết cách đối nhân xử thế, hiểu rõ lẽ sống cuộc đời, luôn đặt lợi ích chung lên trước và biết làm việc đến nơi đến chốn. Trong tâm trí tôi, trường học phải là nơi gieo mầm trí tuệ, kỷ luật và nhân cách cho người học. Chỉ có một nền giáo dục chân chính mới có thể khâu vá được vết thương của một quốc gia đói nghèo sau chiến tranh, và mở ra một con đường phát triển bền vững cho đất nước và đặc biệt là miền trung quê hương mình.


Những năm đầu tiên gây dựng Đại học Duy Tân, phải khởi sự từ những gì có sẵn và từ những việc có thể làm ngay. Tôi mở các trung tâm “tiền thân” để gây dựng nền tảng. Đó là sự ra đời của trung tâm Anh ngữ Thực hành đào tạo hàng ngàn người biết tiếng Anh tiếp theo là Trung tâm Điện tử. Đồng thời, chúng tôi liên kết với Đại học Bách Khoa Hà Nội đào tạo Cao đẳng CNTT, với Đại học Mở Tp.HCM đào tạo Quản lý. Mục tiêu của tôi khi đó rất rõ ràng: để người học có ngay ngoại ngữ, tin học và tư duy quản trị. Những viên gạch đầu tiên để hình thành nên một đại học đúng nghĩa. Dù vậy, đi tới đâu tôi cũng gặp phải sự hoài nghi. Có lần, một quan chức thẳng thắn bảo tôi “tâm thần và ngông” vì thời ấy các trường công lập còn chật vật, tôi lại đòi mở trường tư ở miền Trung. Tôi không tranh luận; tôi chỉ nhìn thẳng vào người ta và nói rằng vốn liếng của tôi không phải đất đai hay tiền bạc, mà chính là kiến thức và mối quan hệ xã hội. Nếu đi đúng cách, kiến thức và quan hệ ấy sẽ tự sinh ra tiền của và cơ hội.

 

Để học cách hạch toán kinh tế, tôi nhận lời làm Giám đốc Công ty Du lịch Quảng Nam-Đà Nẵng trong năm năm. Tôi đi khắp nơi để học cách kinh doanh, đọc, nghiên cứu và ghi chép vô số tài liệu sổ sách để lập kế hoạch kinh doanh. Trên một chuyến bay, tôi tình cờ gặp một doanh nhân Mỹ và thuyết phục ông ấy về Đà Nẵng đầu tư. Nhờ vậy, một trong những liên doanh Việt-Mỹ đầu tiên thời ấy (Khách sạn Furama Đà Nẵng) đã ra đời. Khi dự án thành công và họ mời tôi làm Chủ tịch Hội đồng Quản trị, tôi từ chối. Giấc mơ của tôi không phải là trở thành ông chủ doanh nghiệp thương mại, mà là xây dựng một ngôi trường đại học.

 

Bài toán huy động vốn cho chặng quyết định cuối cùng luôn là khó khăn nhất. Để giải, tôi và vợ (cô Nguyễn Thị Lộc) đã quyết định thế chấp căn nhà cấp 4 trên đường Nguyễn Thị Minh Khai làm vốn khởi nghiệp. Ngân hàng chỉ giải ngân 132 triệu đồng. Giám đốc ngân hàng lúc đó, cựu học trò của tôi tại trường trung học đệ nhị cấp Trần Quý Cáp, nhìn thấy rủi ro nên can ngăn: “Nếu thầy không xin được giấy phép mở trường, thì gia đình thầy sẽ ở đâu?”. Tôi đã dứt khoát đáp: “Tôi chấp nhận mọi rủi ro. Đây là sự nghiệp mà cả đời tôi theo đuổi. Cứ làm theo quy định của ngân hàng, tôi sẽ không phản bội tín nhiệm của anh. Tôi tuân thủ nghiêm mọi điều khoản hợp đồng, kể cả việc rủi ro mất nhà!”. Tôi còn nói vui với ông ấy rằng: “Cứ chơi theo ‘luật giang hồ’: nếu mất nhà thì việc ở đâu của gia đình tôi, anh không cần bận tâm!”.


Thủ tục hành chính khi đó như một mê cung. Từ năm 1990 đến cuối năm 1993, chúng tôi mới hoàn thiện được việc thành lập Hội đồng Sáng lập. Ban đầu tôi đề xuất tên trường là “Trường Đại học Tư thục Miền Trung”, nhưng không được chấp nhận với lý do trong tương lai có thể sẽ có nhiều trường mang tên miền Trung khác. Cuối cùng, vợ tôi đề xuất cái tên “Duy Tân”, lấy cảm hứng từ phong trào canh tân của cụ Phan Chu Trinh. Tuy nhiên hồ sơ vẫn vướng vì “Duy Tân” cũng là tên một vị vua. Tôi đã xin gặp trực tiếp Thủ tướng Võ Văn Kiệt và trình bày rằng phong trào Duy Tân năm 1906 tại Quảng Nam do cụ Phan Chu Trinh khởi xướng sau đó lan ra cả nước về tinh thần khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh. Nghe vậy, Thủ tướng đã gật đầu đồng ý cho phép đặt tên trường là Đại học Duy Tân.


Hành trình ba thập kỉ trôi qua thật nhanh, cột mốc tự hào nhất với tôi và với các đồng nghiệp ở Duy Tân trong xuyên suốt quá trình đó có lẽ là ngày 7/10/2024, khi chúng tôi nhận quyết định của Chính phủ cho phép chuyển thẳng từ Trường Đại học Duy Tân lên Đại học Duy Tân. Niềm vui khi ấy không hò reo, nó chảy ngược vào tim, đưa tôi trở về với ký ức của mái nhà đã từng mang sổ đỏ đi cầm, với gương mặt những người đồng đội nằm lại, với ánh mắt thầy trò đã bền bỉ tin tưởng và đi cùng nhau. Quyết định ấy là lời xác nhận cho một giấc mơ tưởng chừng bất khả, từ vùng đất miền trung nghèo, hoang tàn sau chiến tranh; không tiền, không nhà, không đất, chúng tôi vẫn bền gan một niềm tin với giáo dục Đại học. Trong niềm hạnh phúc và tự hào vỡ òa ấy, tôi càng thấy rõ trách nhiệm nặng nề và tầm nhìn dài lâu phía trước, chiếc áo rộng phải đi cùng với bờ vai rộng lớn hơn. Giờ đây Duy Tân đã đứng cùng các đại học vùng và đại học quốc gia, nhưng niềm tự hào ấy không làm tôi nhẹ nhõm. Trái lại, nó đặt lên tôi và những anh em nơi đây một trách nhiệm lớn hơn rất nhiều. Bởi khi đã mang danh đại học, khi đã sánh vai với các đại học danh giá khác đòi hỏi chuẩn mực phải cao hơn, chất lượng đào tạo phải nghiêm túc hơn, kỷ luật học thuật phải chặt chẽ hơn, và trách nhiệm với đất nước, với tương lai con em miền Trung này phải càng sâu dày hơn nữa. Tôi hiểu rất rõ khi được đứng ở vị trí hôm nay không phải để nhận lại điều gì, mà tiếp tục gánh một sứ mệnh khốc liệt khác. Mọi danh vọng cuối cùng rồi chỉ để lại hương hoa, cách để chuyển hóa nó bền vững hơn chính là nội lực bên trong cái danh xưng đó!

 

Từ những giai đoạn đầu tiên, Đại học Duy Tân đã xác định hoạt động không vì lợi nhuận để bảo vệ sứ mệnh dài hạn của mình. Theo tôi, tiền chỉ là phương tiện, không phải mục tiêu cuối cùng. Vợ tôi đã khẳng định rõ rằng một khi đã dốc vốn vào trường thì sẽ không mời thêm cổ đông góp vốn. Tôi đồng ý và tự ràng buộc mình theo nguyên tắc đó. Nói rằng không vì lợi nhuận không hoàn toàn chính xác tuyệt đối, bởi chỉ khi có lợi nhuận thì nhà trường mới tái đầu tư và phát triển được; nhưng tôi khẳng định chúng tôi không chia sẻ lợi nhuận ấy với bất cứ ai. Trường đại học có thể và phải tạo ra lợi nhuận để phát triển, nhưng lợi nhuận đó chỉ có một điểm đến duy nhất là quay trở lại cho người học, cho đội ngũ giảng viên và cho cơ sở vật chất, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo.


Đặc biệt, việc không vì lợi nhuận còn buộc cả hệ thống phải sống dựa trên giá trị thực của mình bằng tỉ lệ việc làm của sinh viên, năng lực nghiên cứu, sự tin tưởng của doanh nghiệp và xã hội. Ở Duy Tân, “lợi nhuận” đích thực đến từ chất lượng của người học khi bước ra đời với tâm thế một người giỏi nghề, có đức hạnh và sống có ích cho cộng đồng.


Dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm, với tầm nhìn chiến lược của Đảng cho giai đoạn phát triển vươn mình, đất nước ta đang bước vào một bước chuyển mình mạnh mẽ trong các định hướng phát triển. Các chuỗi văn bản chỉ đạo quan trọng như Kết luận 91 tiếp tục khẳng định việc thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Nghị quyết 57-NQ/TW, 68-NQ/TW và 71-NQ/TW đã xác định rõ các trụ cột đổi mới của quốc gia. Trong đó, Nghị quyết 57-NQ/TW khẳng định khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là “đột phá quan trọng hàng đầu, động lực chính” đưa đất nước bứt phá, hùng cường trong kỷ nguyên mới. Nghị quyết 68-NQ/TW nhấn mạnh kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế, đồng thời là lực lượng tiên phong thúc đẩy khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, góp phần hiện thực hóa mục tiêu của Nghị quyết 57. Cùng với đó, Nghị quyết 71-NQ/TW năm 2025 tiếp tục khẳng định giáo dục và đào tạo, đặc biệt là giáo dục đại học, là “nòng cốt phát triển nhân lực trình độ cao, nhân tài, thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo”; đây chính là trụ đỡ trí tuệ và động lực tinh thần để triển khai thành công toàn bộ các chủ trương lớn của Đảng.

 

Hoạt động trong giáo dục đại học trong một thời gian dài, tôi luôn dõi sát sao luật pháp, các chính sách và nghị quyết của Đảng và Nhà nước với tâm thế của người trong cuộc. Theo quan điểm cá nhân tôi, Nghị quyết 57 về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số chỉ thực sự phát huy được vai trò “đột phá quan trọng hàng đầu” khi được đặt trong chỉnh thể thống nhất với Kết luận 91, Nghị quyết 71, Nghị quyết 68 và các văn bản liên quan khác. Toàn bộ hệ thống chính sách ấy phải được tổ chức thực thi một cách đồng bộ, có kỷ luật và nhất quán thì mới có thể đạt tới mục tiêu của Nghị quyết 57 trong thời đại trí tuệ nhân tạo (AI). Chính sách về giáo dục, khoa học - công nghệ và kinh tế tư nhân cần được soi chiếu, nâng đỡ lẫn nhau. Phải thể hiện sinh động qua sự đồng hành giữa các cơ sở giáo dục đại học với hoạt động nghiên cứu khoa học và doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, nơi ươm mầm nhân tài, lan tỏa tri thức, đẩy mạnh chuyển đổi số, tạo nên những nền tảng thiết yếu cho kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo và phát triển bền vững. 

 

Tôi đặt nhiều kỳ vọng vào quyết tâm chính trị đã được thể hiện rõ trong các chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, nhưng kỳ vọng ấy trước hết nằm ở chỗ tinh thần nghị quyết phải được chuyển hóa thành hành động kiên trì, nhất quán từ Trung ương đến từng cơ sở giáo dục. Chỉ khi đó, các trường đại học mới thực sự giữ vững và phát huy vai trò là nơi đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao tri thức phục vụ phát triển đất nước đúng với sứ mệnh cao quý mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân đã tin cậy trao gửi. 

 

Ngay từ những ngày đầu thành lập, Đại học Duy Tân đã xác lập phương châm “Bản lĩnh Việt Nam, đổi mới sáng tạo và vươn tới những tầm cao”. Tuy nhiên, sự thành công nhanh hay chậm còn phụ thuộc rất nhiều vào các chính sách cụ thể và sự quyết tâm thực thi thường xuyên của cả người thầy lẫn người học. 


Chính sách thu hút và tập hợp đội ngũ trí thức tinh hoa ở nhiều nguồn lực khác nhau, từ đội ngũ trí thức giỏi trong nước, kiều bào và cả chuyên gia quốc tế phải được xem là một mũi đột phá chiến lược, gắn với môi trường làm việc xứng đáng, cơ chế đãi ngộ đủ sức cạnh tranh và không gian học thuật thật sự tự do, tôn trọng chuyên môn. Chỉ khi gom đủ các nguồn lực ấy lại một hướng, chúng ta mới tạo được sức bật cần thiết; vì một mình trong nước thì chưa đủ. Tôi hy vọng Nghị quyết 57 sẽ trở thành động lực trung tâm của cả hệ thống nghị quyết nói trên, để khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số sớm đi vào đời sống thông qua các bước đi cụ thể, vững chắc và hiệu quả. Chính sức mạnh của nguồn nhân lực chất lượng cao, kết tinh trên nền truyền thống hiếu học sắt son của dân tộc, sẽ tạo nên động lực để giáo dục đại học làm trụ cột, nâng cánh các quyết sách chiến lược, đưa nước nhà phồn vinh, hùng cường.

 

Xuất phát điểm nghèo khó và được rèn luyện trong quân đội và chiến tranh từ rất sớm, tôi luôn tuân thủ hai nguyên tắc cơ bản trong cuộc sống: quý trọng sức khỏe và thời gian. Có thể thiếu thốn nhiều thứ khác, nhưng hao tổn sức khỏe hay phí phạm thời gian thì không thể cứu vãn. Tôi giữ kỷ luật trong mọi phương diện. Ở từ bản thân, công việc đến các mối quan hệ xung quanh. Tôi sống lành mạnh, không để vật chất xô ngã mình, luôn nghiêm khắc với chính bản thân. Như Khổng Tử đã từng dạy: “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, tôi tin muốn làm được việc lớn cho xã hội thì trước hết phải tự tu dưỡng bản thân cho có kỷ luật.


Một cá nhân có kỷ luật sẽ mỗi ngày một mạnh mẽ hơn, và một xã hội có kỷ luật theo thời gian sẽ trở nên hùng cường. Nhật Bản chính là ví dụ điển hình cho điều này. Họ phát triển thăng hoa nhờ tinh thần kỷ luật trong mọi hành động của người dân. Tôi đã áp dụng kỷ luật vào từng ngày làm việc cụ thể của mình: lên kế hoạch rõ ràng cho mỗi công việc, rồi cuối ngày ghi vào sổ tay những việc đã hoàn thành và những việc chưa xong, tự vấn vì sao chưa xong, tôi còn thiếu nguồn lực nào, cần người nào ở vị trí phù hợp. Cứ như thế, tôi liên tục mài giũa bản thân. Kỷ luật tạo ra chiều sâu trí tuệ, và trí tuệ lại tạo ra chất lượng công việc, giúp ta hoàn thành công việc một cách trọn vẹn.

 

Đối với tôi, hạnh phúc lớn nhất sau bao thăng trầm chính là vẫn còn sống để trở về. Sau khi đi qua những cuộc kháng chiến ác liệt mà vẫn có mặt giữa đời này, làm nên một ngôi trường để đền đáp cho anh em đã khuất, đó là món quà quý giá nhất mà số phận ban tặng. Hạnh phúc đối với tôi là được sống để phục vụ và được cống hiến cho xã hội, cho đất nước. Không có gì quý giá hơn điều đó. Mỗi ngày được làm một việc tử tế, góp một phần nhỏ bé sức lực cho cộng đồng, là niềm vui, là hạnh phúc. Như Einstein đã nói, con người hạnh phúc nhất là khi được yêu. Vì vậy tôi tin rằng được yêu trên bất kỳ hình thức nào. Yêu gia đình, yêu bản thân một cách đúng mực, yêu xã hội, yêu khoa học và những giá trị mình theo đuổi chính là một phần của hạnh phúc trọn vẹn nhất.

 

Các bạn trẻ hôm nay đang sống trong một thời kỳ mà giáo dục và thế hệ trí thức được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Cơ hội học tập rộng mở hơn bao giờ hết, Tuy nhiên, cơ hội sẽ vô nghĩa nếu bạn thiếu một tâm thế đúng. Con đường phía trước chỉ thực sự hiện rõ khi bạn quyết tâm học để trưởng thành, học để phụng sự, chứ không phải học cho xong.


Hãy gìn giữ sức khỏe và thời gian của mình, vì hai thứ ấy trôi qua rất nhanh mà lại song hành nhưng đi ngược chiều nhau. Từ khi bước vào đại học cho đến khoảng 35 tuổi là giai đoạn vàng son để tích lũy tri thức và bản lĩnh. Thẳng thắn mà nói, nếu ở độ tuổi 18-22 người trẻ không tạo được nền móng kiến thức thì về sau rất khó để bứt phá. Bạn không cần chờ đợi điều gì quá lớn lao; chỉ cần bền bỉ làm điều đúng, làm điều tốt và làm đến nơi đến chốn từ ngày này qua ngày khác. Bắt đầu từ lớp học đến công việc sau đó lớn hơn là từ gia đình đến cộng đồng.


“Mỗi người lúc sống phải trồng một cái cây (cây đời), để khi chết đi còn để lại cho đời một bóng mát.” Bóng mát ấy lớn hay nhỏ là do mỗi chúng ta, tuỳ vào kỷ luật mà bạn giữ, tri thức mà bạn tích lũy và những điều tử tế bạn đã gieo trồng. Trồng cây đời, gieo mầm tri thức, đó chính là sứ mệnh lớn lao mà tôi tin ở mỗi thế hệ trẻ tương lai.

 

(Anh hùng Lao động, Nhà giáo Ưu tú Lê Công Cơ)